Thông thường, qua vài thập kỷ gần đây, các ca phẫu thuật tim được thực hiện thông qua cắt xương ức (một đường cắt lớn trên ngực và tách xương ngực) để có thể tiếp cận tim. Đường rạch lớn không chỉ tạo ra vết sẹo dài, không đẹp mắt, mà còn gây đau hơn, chấn thương sinh lý nhiều hơn, phải nằm viện lâu hơn và thời gian phục hồi dài hơn.
Do các kỹ thuật phẫu thuật tim và công nghệ cải thiện theo thời gian, các kỹ thuật phẫu thuật đã được điều chỉnh thích hợp để giảm đau và giảm chịu đựng cho bệnh nhân mà vẫn đảm bảo ca phẫu thuật an toàn và hiệu quả.
Phẫu thuật tim xâm lấn tối thiểu (MICS) hiện cũng được phát triển thành công và công nhận tại hầu hết mọi nơi trên thế giới. Tuân thủ các tiêu chí nghiêm ngặt, chiều dài vết mổ cho MICS được xác định là chưa đến 4 inch.
Đến nay, MICS đã được sử dụng cho phẫu thuật bắc cầu động mạch vành (CABG) và phẫu thuật van tim.
Đối với phẫu thuật bắc cầu động mạch xâm lấn tối thiểu (MIDCAB), động mạch vú thất trái (LIMA), là con đường tốt nhất và cung cấp độ thông mở lâu dài tốt nhất, có thể có được qua 3 cách khác nhau:
Mở ngực trước nhỏ 6 – 8cm
Nội soi ngực được hỗ trợ bằng video (VATS)
Nội soi ngực được hỗ trợ bằng robot
Mỗi phương pháp này đều có ưu và nhược điểm riêng. Có một tốc độ lĩnh hội nhất định và do đó điều quan trọng là các bác sĩ phẫu thuật phải thành thạo các phương pháp đó.
Sau khi lấy LIMA, động mạch sẽ được kết nối với động mạch xuống trước trái quan trọng nhất để cung cấp cho bệnh nhân kết quả lâu dài tốt nhất. Trong quá trình hoạt động, nhờ kỹ thuật không dùng tuần hoàn ngoài cơ thể cũng như và can thiệp tim ít nhất, bệnh nhân có lưu lượng máu ổn định hơn và giảm chảy máu.
MICS cũng đang được sử dụng rộng rãi cho phẫu thuật van tim biệt lập, đặc biệt là điều trị/thay thế van hai lá, điều trị/thay thế van ba lá và thay thế van động mạch chủ. Thông thường, phẫu thuật này được thực hiện thông qua vết mổ 6 – 8cm ở xương ức. Đối với phẫu thuật van hai lá và ba lá, cũng có thể tiếp cận thông qua một vết mổ nhỏ qua ngực hoặc thông qua phẫu thuật được hỗ trợ bằng robot.
Do bác sĩ phẫu thuật tim có trình độ tiến hành, các phương pháp phẫu thuật xâm lấn tối thiểu này sẽ mang lại cho bệnh nhân ít tổn thương về thể chất và tâm lý nhất đồng thời vẫn đảm bảo an toàn cho bệnh nhân. Thông thường, sau MICS, bệnh nhân có thể được xuất viện trong thời gian từ 3 – 4 ngày và có thể trở lại hầu hết các hoạt động bình thường trong vòng 2 – 4 tuần.
Thủ thuật MICS tiên tiến này không ngừng phát triển và cũng đã được áp dụng thành công trong nhiều ca phẫu thuật tim, bao gồm: đóng lỗ thông vách liên nhĩ, điều trị van ba lá, thủ thuật DOR (phẫu thuật suy tim mạn tính) và loại bỏ cục máu đông thất trái, phẫu thuật điều trị chứng loạn nhịp tim và vỡ vách liên thất.
Phương pháp kết hợp
Trong kỷ nguyên y học hiện tại, rất khó để đưa ra các lựa chọn điều trị hoàn hảo cho bệnh nhân mắc bệnh tim phức tạp. Ở bệnh nhân mắc bệnh tim thiếu máu cục bộ, một số động mạch vành có thể được điều trị phù hợp hơn bằng cách sử dụng kẹp mạch và đặt stent, khi đó động mạch vành nhất định, đặc biệt là động mạch xuống trước trái, có thể sẽ tốt hơn rất nhiều khi kết nối với CABG và LIMA. Ở bệnh van tim kết hợp với bệnh động mạch vành, bệnh nhân sẽ được tiến hành giải phẫu cắt xương ức toàn bộ bằng cách sử dụng các phương pháp tiêu chuẩn để điều trị cả van tim và hẹp động mạch vành.
Tuy nhiên, với sự phát triển của MICS và tăng cường làm việc nhóm giữa các bác sĩ tim mạch và bác sĩ phẫu thuật tim, phương pháp kết hợp dành cho bệnh nhân mắc bệnh tim hiện nay có thể đưa ra một góc nhìn mới về việc lập phác đồ điều trị và hướng tới lợi ích tốt nhất của bệnh nhân.
Ở bệnh nhân mắc nhiều bệnh về động mạch vành, phương pháp thông nối LIMA – LAD mang lại độ thông mở lâu dài tốt nhất và tỷ lệ sống sót cao nhất cho bệnh nhân. Phẫu thuật bắc cầu nối động mạch vành thường mang lại kết quả lâm sàng khả quan. Tuy nhiên, trong thực tế kết quả khả quan này chỉ đến với chưa đến 20% số ca bệnh.
Mặt khác, mặc dù can thiệp mạch vành qua da (PCI) với stent ít xâm lấn nhất trong tất cả các thủ thuật can thiệp vào mạch máu, cũng như công nghệ đặt stent mạch vành đã phát triển đáng kể, thì kết quả của thủ thuật này vẫn không thể nào so sánh với LIMA – LAD, với tỷ lệ thông mở 90% trong 20 năm.